Khi nào cần cắt bao qui đầu là câu hỏi được nhiều người quan tâm. Cắt bao qui đầu là một trong những thủ thuật được thực hiện thường xuyên nhất trên thế giới và là một trong những thủ thuật lâu đời nhất trong lịch sử loài người. Người ta cho rằng thủ thuật này có từ khoảng 15.000 năm trước. Các bằng chứng cư dân Úc thực hiện cắt bao qui đầu bằng các công cụ làm bằng đá cho thấy thủ thuật này đã tồn tại từ thời tiền sử. Ở bức phù điêu trên tường của đền thờ Ankh-Ma-Hor của Ai Cập cổ đại cách đây khoảng 6.000 năm đã mô tả thủ thuật cắt bao qui đầu. Từ xa xưa, nhiều vùng trên thế giới đã cắt bao qui đầu vì lý do tôn giáo và các lý do khác như truyền thống…
Cắt bao qui đầu vì lý do liên quan đến sức khỏe được đặt ra vào thế kỷ XIX. Năm 1891, Remondino cho rằng cắt bao qui đầu là một biện pháp can thiệp có lợi về mặt sức khỏe và có hiệu quả trong việc phòng ngừa chống lại các bệnh như nghiện rượu, động kinh, hen, đái dầm, thoát vị và bệnh gút. Cho đến nửa đầu thế kỷ XX, các ý kiến ủng hộ việc cắt bao qui đầu đã dẫn đến việc cắt bao qui đầu vì lý do chăm sóc sức khỏe trở thành phổ biến, đặc biệt là ở các nước nói tiếng Anh, được thực hiện trong thời kỳ sơ sinh.
Năm 1949, Gairdner đã đặt lại vấn đề về có nên cắt bao qui đầu thường xuyên trong bài viết của mình đồng thời nhấn mạnh các đặc điểm và tầm quan trọng của bao qui đầu. Sau bài báo này, các hiệp hội Nhi khoa ở Anh, Canada và Hoa Kỳ đã từ bỏ khuyến cáo cắt bao qui đầu thường qui và tỉ lệ cắt bao qui đầu giảm đáng kể ở những quốc gia này.
Tuy nhiên do các báo cáo cho rằng cắt bao qui đầu làm giảm đáng kể nhiễm khuẩn đường tiết niệu ở trẻ em, cho nên năm 2012 Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (the American Academy of Pediatrics) đã đề xuất để cho gia đình quyết định việc thực hiện thủ thuật này. Vì cắt bao qui đầu có nguy cơ thấp và những có những lợi ích nhất định, và vì những báo cáo theo thiên hướng ủng hộ của các tổ chức như Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (the American Academy of Pediatrics), Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Chương trình của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) và Tổ chức Cắt bao qui đầu cho nam giới tự nguyện, cho nên cắt bao qui đầu đã trở nên phổ biến trên thế giới. Ngày nay, người ta ước tính rằng 37,7% đàn ông trên thế giới đã cắt bao qui đầu.
Hiện nay cắt bao qui đầu được chỉ định cho những trường hợp:
- Hẹp bao qui đầu bệnh lý
- Nghẹt qui đầu (paraphimosis), xảy ra khi bao qui đầu bị kéo ra sau và không thể trượt về vị trí giải phẫu ban đầu của nó
- Một số bệnh lý ở dương vật: viêm qui đầu, viêm qui đầu tái phát, bất thường gây khó khăn trong quan hệ tình dục, ung thư dương vật, …
- Một số trường hợp có thể xem xét chỉ định cắt bao qui đầu
+ Bao qui đầu rất dài ảnh hưởng đến việc vệ sinh, sinh hoạt…
+ Trẻ em có dị tật bẩm sinh đường tiết niệu, trào ngược bàng quang niệu quản gây thận ứ nước nên xem xét cắt bao qui đầu
+ Nhiễm khuẩn đường tiết niệu tái diễn
+ Dự phòng một số bệnh lây nhiễm qua đường tình dục
Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau về cắt bao qui đầu, tuy nhiên cơ thể con người vốn là hoàn hảo, cho nên việc cắt bỏ đi một phần cần phải cân nhắc kỹ và tốt nhất là nên đến khám ở bác sĩ chuyên khoa khi có vấn đề liên quan đến sức khỏe để được tư vấn.
Tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt (hay còn gọi là u xơ tuyến tiền liệt) thường gặp ở nam giới lớn tuổi. Các triệu chứng gây nên do tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt nếu xuất hiện (như tiểu yếu, tiểu rắc, tiểu đêm, tiểu nhiều lần….) thì cần phải được điều trị để giảm các triệu chứng và mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn. Phần lớn bệnh nhân được điều trị bằng thuốc, một số khác được phẫu thuật và một số ít chỉ cần theo dõi. Tuy nhiên, cho dù đang được điều trị bằng phương pháp nào đi nữa thì việc thay đổi thói quen hằng ngày sẽ giúp ngăn sự tiến triển của bệnh. Cho đến nay hầu hết bệnh nhân vẫn chưa quan tâm đến các biện pháp hỗ trợ này. Chúng tôi xin giới thiệu một số những biện pháp cần thiết để bệnh nhân có thể áp dụng nhằm duy trì hiệu quả điều trị lâu dài
a. Tránh hút thuốc lá
Các nghiên cứu cho thấy người hút thuốc là nhiều sẽ làm tăng nguy cơ tiến triển của bệnh. Khói thuốc lá kích thích phản ứng viêm tại tuyến tiền liệt. Hạn chế và tốt nhất là nên từ bỏ thuốc lá là cần thiết.
b. Hạn chế uống rượu, bia, các chất kích thích
Uống rượu nhiều làm tăng tiến triển tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt do làm rối loạn quá trình tổng hợp tại tuyến tiền liệt dẫn đến các triệu chứng sẽ nặng lên. Tốt nhất là nên hạn chế tối đa uống các chất có cồn.
c. Duy trì tập thể dục
Tập thể dục hàng ngày làm giảm sự tiến triển tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt và giảm triệu chứng. Với người cao tuổi, tùy vào sức khỏe và điều kiện sống của mình để chọn một hình thức thích hợp như đi bộ, dưỡng sinh…
d. Kiểm soát tốt các bệnh lý mạn tính
Các công trình nghiên cứu cho thấy một số bệnh lý mạn tính làm tăng tiến triển tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt như tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì… Những người có mỡ máu cao và chế độ ăn giàu chất béo động vật có nguy hơn tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt hơn những người khác. Do vậy cần có một chế độ điều trị các bệnh mạn tính thật tốt để kiểm soát tốt các bệnh lý mạn tính này.
e. Ăn nhiều rau, củ, quả
Ăn nhiều rau, củ quả giúp tuyến tiền liệt khỏe mạnh. Những chất có trong rau, củ quả giúp giảm nguy cơ tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt như lycopene (có trong cà chua, dưa hấu...); vitamin D, kẽm (có trong rau thơm các loại ngũ cốc...). Ngoài ra, chất polyphenol có trong trà xanh giúp giảm triệu chứng co tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt gây nên.
f. Không nhịn tiểu quá lâu
Những bệnh nhân có triệu chứng do tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt có nguy cơ bí tiểu khi nhịn tiểu quá lâu, do vậy không nên nhịn tiểu quá lâu. Cần để cho việc đi tiểu được tự nhiên.
g. Điều chỉnh chế độ uống nước
Cần uống nước đầy đủ trong ngày, tuy nhiên nên hạn chế uống nước từ khoảng 5 giờ chiều để tránh đi tiểu đêm. Giảm tiểu đêm sẽ giúp tăng chất lượng cuộc sống cũng như giảm các nguy cơ do tiểu đêm gây ra như đột qụy, té ngã…
h.Chống táo bón
Trước tiên nên thực hiện các biện pháp chống táo bón như uống đủ nước, ăn các thức ăn có chất xơ (rau củ…), đại tiện theo giờ trong ngày…. Một số trường hợp cần thiết thì có thể phối hợp với thuốc nhuận trường.
Thụt tháo chỉ sử dụng trong những trường hợp thực sự và nên có sự tư vấn của thầy thuốc. Thụt tháo thường xuyên có thể gây mất phản xạ đại tiện.
Giãn tĩnh mạch tinh (trước đây thường được gọi là giãn tĩnh mạch thừng tinh, tuy nhiên danh pháp giải phẫu hiện nay chỉ có tĩnh mạch tinh, không có tĩnh mạch thừng tinh) là bệnh lý trong đó dòng máu không thể lưu chuyển bình thường từ tinh hoàn về tĩnh mạch tinh dẫn đến đám rối tĩnh mạch (là 1 phần của tĩnh mạch tinh trong) bị giãn nở, trở nên lớn hơn và có thể nhận thấy bằng mắt thường ở vùng bìu.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này vẫn chưa được hiểu rõ.
Giãn tĩnh mạch tinh là bệnh lý khá phổ biến, thường xảy ra nhất ở tuổi thanh thiếu niên trở lên nhưng cũng có thể phát bệnh khi còn nhỏ. Bệnh không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động thường ngày nhưng có nguy cơ gây vô sinh hay suy sinh dục do loạn dưỡng tinh hoàn.
Khoảng 40% nam giới vô sinh do giãn tĩnh mạch tinh. Khi mắc phải bệnh lý này bạn có thế gặp các triệu chứng: đám tĩnh mạch nổi ở vùng bìu, sưng hoặc cảm giác đau tức (thường xuất hiện sau khi vận động). Giãn tĩnh mạch tinh không thể tự khỏi được do tĩnh mạch đã giãn ra thì không thể tự phục hồi.
Phẫu thuật giãn tĩnh mạch tinh được chỉ định khi có bất thường về chỉ số tinh dịch dẫn đến vô sinh, có biểu hiện đau hoặc khó chịu, giảm kích thước tinh hoàn.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật thắt tĩnh mạch tinh như: phẫu thuật mở, phẫu thuật qua nội soi ổ bụng, phẫu thuật vi phẫu, làm tắc các mạch bằng can thiệp nội mạch.
Hiện nay phẫu thuật vi phẫu, hình thức mổ bằng kính hiển vi được áp dụng phổ biến, do an toàn, hiệu quả cao, ít biến chứng và được xem là tiêu chuẩn vàng trong điều trị bệnh lý này. Ưu điểm của phẫu thuật dưới kính hiển vi là giúp nhận diện các động mạch, tĩnh mạch, thần kinh và bạch mạch một cách chính xác hơn so với các pháp khác giúp nâng cao tỉ lệ thành công của phẫu thuật và giảm các biến chứng. Tuy nhiên việc nhận diện này vẫn phụ thuộc vào chủ quan của phẫu thuật viên nên sai sót vẫn có thể xảy ra, trong trường hợp thắt nhầm động mạch có thể gây thiểu dưỡng tinh hoàn, làm nặng hơn tình trạng bệnh.
Tại Bệnh viện Đại học Y Dược Huế từ 09/2019 các bác sĩ đã tiến hành sử dụng siêu âm Doppler để giúp xác định một cách chắc chắn các đám rối tĩnh mạch và động mạch trong quá trình phẫu thuật vi phẫu. Việc xác định chính xác động mạch sẽ giúp bảo tồn khả năng tưới máu nuôi dưỡng tinh hoàn, xác định chính xác tĩnh mạch sẽ tránh bỏ sót, giảm tỷ lệ tái phát. Qua đó, giúp phục hồi chức năng sinh sản và cải thiện tối ưu các triệu chứng cho bệnh nhân sau phẫu thuật.
Theo Điều 1 Luật Thanh niên 2020 của Việt Nam thì “Thanh niên là công dân Việt Nam từ 16 đến 30 tuổi”. Đây là lứa tuổi chúng tôi đang muốn đề cập trong bài viết này.
Hằng ngày chúng tôi tiếp nhận nhiều thanh niên, đặc biệt là lứa tuổi mới lớn, đến phòng khám với lý do “xuất tinh sớm”. Hầu hết trong số đó đều chưa có gia đình, quan hệ tình dục lần đầu hoặc 1 vài lần, và rất lo lắng. Câu hỏi họ thường quan tâm nhất là sau này có thể quan hệ tình dục bình thường không và có thể có con không?
Khả năng quan hệ tình dục và có con hay không là 2 việc khác nhau. Chúng tôi chỉ bàn đến ở đây vấn đề xuất tinh sớm ở thanh niên.
Trước hết cần xem định nghĩa thế nào là xuất tinh sớm ?
Hầu hết các chuyên gia xác định xuất tinh sớm là tình trạng xuất tinh xảy ra sớm hơn sự mong đợi của cả nam giới và bạn tình. Cách định nghĩa này tương đối rộng, do đó tránh được quy định cụ thể thời gian "bình thường" chính xác cho quan hệ tình dục và đạt khoái cảm. Thời gian quan hệ rất khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố cụ thể đối với từng cá thể. Ví dụ, một người đàn ông có thể đạt khoái cảm ở phút thứ 8 lúc quan hệ tình dục, nhưng nếu đối tác của mình thường xuyên đạt được đỉnh trong 5 phút và cả hai đều hài lòng với thời gian, điều này không phải là xuất tinh sớm. Trường hợp khác, một người đàn ông có thể trì hoãn sự xuất tinh của mình lên đến 20 phút , nhưng nếu bạn tình của mình đòi hỏi đến 35 phút mới có thể đạt đỉnh, thì có nghĩa anh vẫn có thể phải xem xét vấn đề xuất tinh của mình cũng như dương vật không đủ cương kéo dài vì đối tác của mình vẫn chưa được thỏa mãn.
Các tiêu chí xuất tinh sớm theo DSM-5 (The Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth Edition ) đang được nhiều thầy thuốc chuyên khoa sử dụng để chẩn đoán gồm:
- Trong tất cả hoặc hầu hết (75-100%) các lần quan hệ, thì xuất tinh xảy ra trong vòng 1 phút sau khi dương vật thâm nhập âm đạo và trước khi bản thân mong muốn.
- Các rối loạn trên đã kéo dài trong ít nhất 6 tháng .
- Tình trạng trên gây nên sự căng thẳng, lo lắng cho bản thân.
Như vậy qua định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy rằng với những thanh niên mới lần đầu quan hệ tình dục hoặc chỉ sau vài lần quan hệ tình dục không thường xuyên có tình trạng xuất tinh quá nhanh thì không thuộc vào nhóm bệnh lý “xuất tinh sớm”.
Theo khảo sát của chương trình Natsal (Anh), có khoảng 4,5% nam thanh niên trong độ tuổi từ 16-21 có trở ngại liên quan đến tình dục, trong đó thường gặp nhất là tình trạng xuất tinh “quá nhanh”.
Một số yếu tố được cho là có liên quan đến tình trạng xuất tinh sớm ở đối tượng thanh niên bao gồm:
- Thiếu kiến thức về tình dục và cơ thể của mình
- Thiếu sự trải nghiệm tình dục
- Chưa tự nhận thức đầy đủ về cơ thể cũng như sức hấp dẫn của cơ thể
- Thiếu hiểu biết và kinh nghiệm trong quan hệ tình dục cũng như các tác động do thủ dâm, hoặc trải nghiệm tình dục sớm
Phần lớn các chuyên gia cho rằng tình trạng xuất tinh sớm ở thanh niên thường sẽ hết theo tuổi và thường không gây nên các hậu quả về sức khỏe. Vì vậy trong những trường hợp thỉnh thoảng xuất hiện xuất tinh sớm thì không phải là vấn đề cần quan tâm. Nếu quá lo lắng sẽ có thể dẫn đến những tác động không tốt.
Tuy nhiên nếu xuất tinh sớm xảy ra > 50% số lần quan hệ tình dục (theo các tiêu chí như đã trình bày ở trên), ở một người đã quan hệ tình dục thường xuyên theo lứa tuổi của mình, thì thường là đã có tình trạng rối loạn chức năng và cần đến khám theo chuyên khoa để được tư vấn và có phương pháp điều trị thích hợp.
Quan hệ tình dục là nghệ thuật, là thời gian cả bản thân và bạn tình cùng tận hưởng những giây phút thăng hoa. Do vậy những hiểu biết đầy đủ về tình dục và có một đời sống lành mạnh cả thể chất lẫn tinh thần sẽ giúp cho bản thân và bạn tình đạt được mục đích của quan hệ tình dục.
Ung thư bàng quang là một bệnh lý ác tính đường tiết niệu thường gặp, đứng vị trí thứ 6 trong các loại ung thư thường gặp trên thế giới. Ở Việt nam, ung thư bàng quang chiếm vị trí hàng đầu trong các bệnh lý ung thư đường tiết niệu.
Ung thư bàng quang được chia thành 2 loại ung thư bàng quang chưa xâm lấn cơ (thương tổn còn giới hạn ở lớp niêm mạc hoặc màng đáy, chưa xâm lấn xuống lớp cơ) và xâm lấn cơ. Tại Hoa Kỳ và các nước Châu Âu, ung thư bàng quang chưa xâm lấn cơ chiếm tỷ lệ khoảng 75%. Trái lại, tại Việt nam, tỷ lệ ung thư bàng quang chưa xâm lấn cơ thường chiếm tỷ lệ thấp hơn do bệnh nhân thường được phát hiện, chẩn đoán muộn.
1. Các trường hợp bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh lý ung thư bàng quang cao: hút thuốc lá nhiều, làm các nghề nghiệp tiếp xúc với hóa chất (thợ nhuộn tóc, thợ sơn..), mắc các bệnh lý nhiễm khuẩn đường tiết niệu mạn tính…..
2. Các triệu chứng xuất hiện trong bệnh lý ung thư bàng quang
- Tiểu máu: Là dấu hiệu thường gặp và xuất hiện sớm nhất, khoảng 80-90% bệnh nhân có tiểu máu, với đặc điểm xuất hiện đột ngột, tiểu máu đại thể (có thể nhìn thấy được nước tiểu có máu), có thể tự cầm, sau đó tái phát lại.
- Một số triệu chứng khác như tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu khó xuất hiện trong khoảng 20% bệnh nhân và một số triệu chứng ít gặp khác như: đau vùng tiểu khung hoặc đau vùng thắt lưng do khối u chèn ép xâm lấn lỗ niệu quản.
3. Các xét nghiệm giúp chẩn đoán sớm u bàng quang.
- Siêu âm ổ bụng: Có thể đánh giá được vị trí, kích thước và mức độ xâm lấn tương đối của khối u tại thành bàng quang hoặc ra ngoài. Tuy nhiên siêu âm gặp khó khăn khi trong bàng quang có máu cục hoặc khối u với kích thước nhỏ.
- Nội soi bàng quang: Đây là phương pháp chẩn đoán quan trọng nhất. Nội soi bàng quang có thể thực hiện bằng ống cứng hoặc ống mềm, giúp phát hiện các u bàng quang và mô tả các đặc điểm của u (vị trí, hình dáng (có cuống hay không) và số lượng).
Hiện nay, nội soi bàng quang bằng phương pháp quang động học (PDD: Photodynamic Diagnosis) hoặc với hình ảnh dãi hẹp (NBI: Narrow Banding Imaging) giúp phát hiện sớm ung thư bàng quang đặc biệt đối với ung thư dạng phẳng, các u bàng quang giai đoạn sớm, giảm tỷ lệ bỏ sót u bàng quang và theo dõi tích cực các trường hợp có nguy cơ mắc bệnh cao.
- Xét nghiệm tìm tế bào u trong nước tiểu: Có thể lấy nước tiểu sáng sớm khi đi tiểu lần đầu hoặc nước rửa bàng quang. Xét nghiệm nước tiểu tìm tế bào ung thư có độ nhạy 18- 76%, và độ đặc hiệu khoảng 93% tùy theo độ biệt hóa của tế bào ung thư. Đối với những khối u có độ mô học cao (G3) vì độ bám dính của các tế bào ung thư kém nên chúng dễ bong ra nước tiểu, do đó xét nghiệm có thể phát hiện các tế bào này.
Điều trị ung thư bàng quang giai đoạn chưa xâm lấn cơ có tiên lượng tốt hơn rất nhiều cũng như phương pháp điều trị đơn giản hơn nhiều so với điều trị ung thư giai đoạn xâm lấn cơ. Do vậy việc chẩn đoán sớm ung thư bàng quang có ý nghĩa lớn đối với cả bệnh nhân lẫn thầy thuốc.
Cần lưu ý triệu chứng đái máu thường xuất hiện sớm và xảy ra trong đa số các trường hợp nhưng lại thường bị bỏ quên, phần lớn là do chủ quan. Do vậy khi có tiểu máu ( cho dù chỉ xuất hiện 1 lần ) hoặc những triệu chứng khác nêu ở trên bệnh nhân nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa Tiết niệu để được tư vấn và chẩn đoán sớm.
Hiện nay, Khoa Ngoại Tiết Niệu BV Đại Học Y Dược Huế với đội ngũ chuyên gia và các trang thiết bị hiện đại giúp có thể khám tư vấn và phát hiện sớm các trường hợp ung thư bàng quang
Thủ dâm là một hành vi tình dục trong đó bản thân kích thích cơ thể của chính mình, các vùng nhạy cảm hoặc bộ phận sinh dục để tạo nên kích thích tình dục và cực khoái.
Một số lý do được cho là nguyên nhân dẫn đến thủ dâm:
Thủ dâm được cho là bình thường ở nam giới và có một số lợi ích, tuy nhiên nếu trở thành nghiện thủ dâm thì ngược lại sẽ có những ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe tình dục.
Để có thủ dâm lành mạnh cần có những hiểu biết về thủ dâm.
Một số điểm cần lưu ý khi thực hiện thủ dâm:
a. Hãy chậm rãi
Hãy cố gắng dành cho bản thân một chút thời gian và không gian. Sống chậm lại. Thay vì mong muốn hoàn thành và kết thúc nhanh chóng việc thủ dâm, thì nên biến điều đó thành cái để tận hưởng.
b. Lắng nghe cơ thể bản thân
Không nên chỉ cảm nhận những gì đang xảy ra với bộ phận sinh dục của bản thân trong khi thủ dâm, mà nên chú ý đến tất cả những cảm giác của mình và tận hưởng về những gì đang diễn ra trong toàn bộ cơ thể.
c. Khám phá các bộ phận khác của cơ thể
Hãy chạm vào các bộ phận khác nhau trên cơ thể theo những cách khác nhau và chỉ cần kiên nhẫn với chính mình. Cảm nhận các cảm giác khác nhau xảy ra khi vuốt ve ngực, vùng hông, bụng, cánh tay hoặc ngay cả hơi thở…
d. Chú ý đến suy nghĩ của chính mình
Hãy để ý những gì bản thân mình đang nghĩ. Những điều này có thể chỉ là trong trí tưởng tượng hoặc trong ký ức bản thân đã trãi qua.
c. Đừng nghĩ đạt cực khoái hay xuất tinh là mục tiêu cuối cùng
Đừng nghĩ rằng chỉ cần đạt được xuất tinh và hoặc đạt cực khoái là đủ. Xuất tinh và cực khoái không giống nhau, cũng như cực khoái và sự tận hưởng đều không giống nhau. Việc tập trung vào mục tiêu làm xuất tinh hoặc đạt cực khoái sẽ có thể làm mất đi những gì bản thân có thể tận hưởng.
d. Cần biết dừng lại bất cứ lúc nào
Nếu cảm thấy không thích thú, hãy dừng lại. Nếu cảm thấy có gì đó khó khăn thì nên dừng và thử lại vào lúc khác. Giống như quan hệ tình dục với bạn tình, bản thân không thể tận hưởng tình dục một mình mà không có sự đồng ý của bạn tình, vì vậy đừng ép bản thân làm điều gì đó cảm thấy không ổn.
e. Thử một cái gì đó mới
Nên thử khuấy động bằng thay đổi cách thủ dâm. Có thể thay đổi bằng sử dụng chất bôi trơn, hoặc thực hiện khi tắm, hoặc thử vuốt theo các kiểu khác nhau với tốc độ và sức ép khác nhau.
f. Đừng quan tâm về cách người khác thủ dâm
Không nên so sánh với những gì người khác làm trong quá trình thủ dâm. Mọi người đều khác nhau và vì vậy sở thích của mỗi người cũng sẽ khác nhau. Cần quan tâm tìm kiếm những gì cảm thấy tốt và phù hợp với bản thân, và điều này cũng có thể thay đổi. Tình dục và sở thích không cố định và vì vậy nếu điều gì đó không phù hợp với bạn thì hãy điều chỉnh để bản thân cảm thấy tốt hơn.
Thủ dâm có cả những mặt tích cực và tiêu cực. Nếu không biết giới hạn có thể dẫn đến những hậu quả không tốt.
Có được lời khuyên và tư vấn từ các bác sĩ chuyên ngành Nam khoa sẽ có ích và không bị đi quá giới hạn có thể ảnh hưởng đến sức khỏe.
Sỏi hệ tiết niệu là bệnh lý có tỷ lệ mắc chiếm khoảng 2-3% dân số thế giới.
Việt Nam nằm trong khu vực các nước có tỷ lệ mắc sỏi cao. Sỏi tiết niệu hiện đang chiếm tỉ lệ cao nhất trong số các bệnh lý tiết niệu được điều trị tại bệnh viện.
Sỏi niệu quản thường gặp, đứng hàng thứ 2 sau sỏi thận, chiếm khoảng 1/3 số bệnh nhân đến khám bệnh về sỏi tiết niệu.
Niệu quản nếu bị tắc nghẽn do sỏi, thận sẽ bị ứ nước. Nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời có thể gây nên một số biến chứng như thận ứ nước, nhiễm khuẩn, trong đó viêm bể thận – thận cấp do tắc nghẽn thường rất nặng, dễ dẫn đến nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn đe doạ tính mạng người bệnh. Trường hợp tắc nghẽn lâu ngày thận sẽ giảm hoặc mất chức năng thận bên có sỏi, một số trường hợp có thể dẫn đến thận bên đối diện mất chức năng tạm thời gây nên suy thận cấp…
Đa số các trường hợp sỏi niệu quản triệu chứng không rõ, có thể đau vùng thắt lưng, vùng hông phía có sỏi, thậm chí một số trường hợp không có triệu chứng cho đến khi có những biến chứng, lúc đó mới phát hiện ra sỏi niệu quản.
Triệu chứng điển hình của sỏi niệu quản là cơn đau quặn thận. Nguyên nhân do sỏi di chuyển trong niệu quản, gây tắc nghẽn dòng nước tiểu từ thận xuống niệu quản, sự tăng áp lực đột ngột trong đài bể thận sẽ khởi phát cơn đau. Cơn đau dữ dội, thường xuất hiện sau vận động mạnh. Đau vùng hông lưng lan xuống dưới, cường độ tăng dần và không có tư thế giảm đau. Trong cơn đau thường kèm cảm giác buồn nôn hoặc nôn ói. Các triệu chứng khác có thể gặp bao gồm: tiểu máu, tiểu nhiều lần và tiểu rắc, tiểu buốt...
Sốt hoặc nước tiểu đục nếu có kèm theo là dấu hiệu nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Trường hợp này cần phải được điều trị khẩn cấp do nguy cơ nhiễm khuẩn nặng và ảnh hưởng nghiêm trọng chức năng thận.
Để lựa chọn phương pháp điều trị sỏi niệu quản phù hợp cần xác định các yếu tố liên quan trong đó một số yếu tố chính được xem xét:
Có nhiều phương pháp điều trị sỏi niệu quản, trong đó không phải tất cả các trường hợp sỏi niệu quản đều cần phải phẫu thuật. Những viên sỏi niệu quản có kích thước bé hơn 5mm có khả năng tự đào thải khi đi tiểu trong 80% trường hợp. Tuy nhiên việc đào thải này còn phụ thuộc nhiều yếu tố như niệu quản có hẹp hay không, có tình trạng viêm dính ở vị trí sỏi hay không…
Các phương pháp điều trị sỏi niệu quản hiện nay.
a. Điều trị nội khoa:
Khi sỏi có kích thước nhỏ hơn 10mm, bề mặt nhẵn, bờ rõ nét, chức năng thận bình thường và thầy thuốc đánh giá khả năng sỏi mới rơi xuống niệu quản thì có thể chỉ định điều trị sỏi niệu quản bằng phương pháp nội khoa thông qua các loại thuốc làm tống xuất sỏi ra ngoài. Các loại thuốc này sẽ giúp niệu quản giãn ra và giảm viêm xung quanh vị trí viên sỏi làm sỏi dễ dàng được tống xuất ra ngoài. Thời gian điều trị kéo dài từ 2-4 tuần. Bên cạnh đó trong thời gian điều trị bệnh nhân cần bổ sung đẩy đủ nước từ 2-2,5 lít/ngày. Đối với sỏi niệu quản 1/3 dưới với kích thước nhỏ hơn 10mm khả năng tống sỏi thành công khoảng 80%.
b. Điều trị ngoại khoa
Nội soi ngược dòng tán sỏi : Sử dụng ống soi niệu quản để đưa vào niệu quản, sau đó dùng laser để tán vụn sỏi. Mảnh vụn sẽ được đào thải qua đường tự nhiên khi đi tiểu. Đây là phương pháp được áp dụng rộng rãi nhất. Phương pháp này áp dụng ưu tiên cho những viên sỏi có kích thước ≤ 15cm. Bệnh nhân không có vết mổ, phục hồi sau mổ nhanh chóng.
Tán sỏi ngoài cơ thể: Áp dụng cho những trường hợp sỏi nhỏ, nằm ở đoạn niệu quản sát với thận. Trường hợp này nếu nội soi niệu quản có nguy cơ sỏi sẽ chạy vào thận. Phương pháp này có tỉ lệ thành công thấp hơn, phải thực hiện nhiều lần ( có thể đến 5 lần tán), tuy nhiên ưu điểm là bệnh nhân có thể điều trị ngoại trú, có thể trở lại công việc thường ngày ngay sau khi tán.
Phẫu thuật lấy sỏi qua da: một số trường hợp sỏi lớn, ở đoạn niệu quản sát với thận, lúc này phẫu thuật cũng có nguy cơ sỏi chạy vào thận. Trong trường hợp này phẫu thuật lấy sỏi qua da là thích hợp. Tạo một đường hầm từ da vào thận, sau đó đưa ống soi tiếp cận sỏi qua đường hầm này và tán vụn sỏi bằng laser. Phương pháp này phức tạp hơn nội soi niệu quản, nhiều tai biến, biến chứng hơn, đòi hỏi kỹ thuật phức tạp hơn. Thời gian phục hồi nhanh hơn mổ mở. Bệnh nhân chỉ có 1 vết sẹo nhỏ khoảng 0,5cm ngay vị trí tạo đường hầm.
Phẫu thuật mở lấy sỏi: chỉ định cho những viên sỏi lớn, không thể tán sỏi bằng nội soi ngược dòng, hoặc có những bất thường của hệ tiết niệu như niệu quản hẹp... Bệnh nhân sẽ có đường mổ và thời gian nằm viện dài hơn, cũng như phục hồi sau mổ lâu hơn nội soi niệu quản ngược dòng.
Mổ nội soi ổ bụng lấy sỏi niệu quản: Hiện nay ít sử dụng.
Sỏi niệu quản nằm chắn đường đi của nước tiểu từ thận xuống bàng quang, gây nên tình trạng tắc nghẽn và ứ nước tiểu, có thể dẫn đến nhiều biến chứng, trong đó viêm thận bể thận cấp do tắc nghẽn là một trong những biến chứng có nguy cơ tử vong cao. Cho đến nay nguyên nhân hình thành sỏi cũng còn nhiều tranh cãi, triệu chứng đôi khi không rõ ràng, cho nên việc khám sức khỏe định kỳ là điều cần thiết và khi có sỏi tiết niệu nói chung, đặc biệt sỏi niệu quản thì cần đến khám ở các cơ sở y tế có chuyên khoa Tiết niệu để được tư vấn và điều trị kịp thời.